Lần đầu tiên nhìn trực diện chàng trai, tôi rùng mình. Cảm giác qua rất nhanh, nhưng một cái gì gai gai nơi xương sống vẫn trở lại khi gặp gỡ anh ta trong công tác hướng dẫn thực tập sư phạm. Chuyên môn anh ta trung bình nhưng nhiệt tình đứng lớp thật đáng cảm động. Về mặt này sở dĩ tôi không cho điểm tối đa vì anh ta phạm một khuyết điểm quan trọng: Thay vì đưa mắt bao quát nhìn lớp học thỉnh thoảng chú ý vài học sinh, thì anh ta chỉ một mực hướng về phía tôi. Tôi ngồi cuối lớp nhìn một chàng trai nhỏ hơn mình mười tuổi, đang toát mồ hôi nổi gân trán cong môi uốn lưỡi phát từng âm tiết rõ hơn cả mức cần thiết. Lại dùng cả động tác thân hình lẫn vẻ mặt để hỗ trợ cho bài giảng. Một tiết dạy của anh ta là diễn cả một vở kịch ngắn trên sân khấu nhỏ. Và tôi thấy rõ ràng anh ta dốc toàn lực để trình diễn. Cũng phải, bởi vì điểm thực tập mà tôi sẽ cho đóng một vai trò đáng kể trong điểm thi tốt nghiệp. Nhưng tôi nhầm. Anh ta nhằm vào cái đích xa hơn. Sau vài buổi trao đổi kinh nghiệm giữa người đi trước và kẻ đi sau theo đúng bài bản, sự thân mật và tin cậy đã đủ độ cho anh ta để lộ cái ý tứ cái “sở nguyện”. Xuất thân ở một làng cách Sài Gòn ba trăm cây số, anh ta quyết không cầm mảnh bằng tốt nghiệp đại học bái tổ vinh qui. Sài Gòn càng ngày càng đầy hấp dẫn đồi với những chàng trai trẻ đã có ba bốn năm nếm mùi thành thị. Họ luôn luôn đủ trẻ để tin rằng chốn phồn hoa ấy thế nào mà chẳng có một chỗ cho họ chen chân. Anh chàng sinh viên khoa Anh văn năm thứ tư này không giấu giếm ý đồ nương vào tôi mà chen lấy một chỗ đứng giữa đất Sài Gòn. “Cô có dạy các trung tâm không? Chắc cô quen nhiều trung tâm, biết nhiều nơi cần ngoại ngữ. Em từng dạy kèm, có lần làm hướng dẫn viên du lịch, cũng đã nộp đơn cho các cơ quan có tuyển người, nhưng… “Tôi biết chữ “nhưng “đó. “Nhưng em không thân thế, không quen biết, không kẻ đỡ đầu”. Tất cả cái anh sinh viên trẻ này có chỉ là cái anh ta tin là “tài năng” của mình. Suốt đợt thực tập anh ta tận dụng mọi cơ hội để phô diễn khả năng và lấy lòng tôi. Phải nhìn nhận rằng anh ta có một kịch bản tốt, lại là đạo diễn kiêm diễn viên xuất sắc. Cuối đợt thực tập tôi hứa sẽ giới thiệu anh ta với ông giám đốc trung tâm ngoại ngữ nơi tôi đang dạy, sau khi anh ta có bằng tốt nghiệp.Trước mắt, tôi nhường anh ta một chỗ dạy kèm. Nói có trời làm chứng, tôi làm việc này vì lợi ích bản thân. Chỗ dạy ấy là chỗ quen biết lâu nay, tiền bạc sòng phẳng nhưng lại vừa xa nhà lại thêm đám đệ tử làm biếng. Nghỉ dạy thì phụ lòng bạn cố tri, lẳng nhẳng dạy hoài không kết quả chỉ tổ mất uy tín. Đem anh chàng trẻ tuổi nhiệt tình này vô thế mạng có khi có lợi cho cả ba.Anh ta mang ơn tôi về việc này, sâu nặng hơn là tôi tưởng. Với hai trăm ngàn đồng mỗi tháng nhận được từ chỗ dạy khá chắc chắn ở ngay Sài Gòn, anh ta đã từ chối không đắn đo quyết định bổ nhiệm sau khi ra trường. Cũng không có gì đáng chê trách. Tại sao phải về một hóc bò tó nào đó cày như trâu để nhận trên dưới một trăm ngàn đồng? Có hàng trăm ngàn tân cử nhân, kỹ sư, giáo viên, bác sĩ mới tốt nghiệp có cùng suy nghĩ như vậy. Họ đang gõ tất cả cánh cửa có thể mở ra, đang chen bước trên mọi nẻo đường tìm việc tiến thân. Là người trong cuộc, anh sinh viên hiểu mình là kẻ may mắn như thế nào. Và dù tôi chẳng tự thấy mình là kẻ gia ân, nhưng vẫn cảm động mỗi khi anh ta ghé lại thăm để nhắc đi nhắc lại tiếng cảm ơn. Anh ta không chỉ đến thăm tôi để cảm ơn. À, mà quên. Có lẽ đặt cho anh ta một cái tên nào đó. Đăng chẳng hạn, để tiện nhắc tới đây về sau. Đăng thường đến thăm tôi sau ca dạy buổi tối. Có khi Đăng đi thẳng từ chỗ dạy kèm đến nhà tôi để nhắn là bạn tôi tức phụ huynh mấy đứa nhỏ Đăng đang dạy, mời tôi chủ nhật ghé lại ăn cơm. Có khi Đăng cầm theo một giáo trình mới photo đến hỏi tôi một chi tiết nào đó. Có thể Đăng là người hiếu học nhiệt tình thật. Nhưng động cơ thật sự để Đăng bám tôi là lời hứa về một chỗ dạy ở trung tâm ngoại ngữ. Thật sự có một nhu cầu giáo viên Anh văn ở các nơi này. Nhưng cánh cửa không mở rộng cho tất cả mọi người, Đăng kiên trì đeo tôi với niềm hy vọng tràn trề. Miễn là có được vé vô cửa, sau đó là bản lĩnh của anh ta. Những anh chàng trai trẻ này, dường như đòi hỏi: “Hãy cho tôi một điểm tựa tôi sẽ bẩy cả thế giới lên cho mà coi”. Tôi không cho rằng đầu óc thực dụng và lòng tự tin của tuổi trẻ là xấu. Ngược lại, tôi thích người trẻ tuổi lao vào tương lai bằng thực lực cộng với sự khôn ngoan thức thời. Và tôi cũng không cần dối lòng rằng tôi mến Đăng. Ở anh ta có một điều mà ngay từ thuở còn bằng tuổi anh ta tôi đã đánh mất, thực ra là không hề có. Đó là tình yêu cuộc đời. Khi Đăng nói chuyện, toàn thể cơ môi, cơ mặt, mắt, chân mày, cả tóc chải lật ngược trên vầng trán cao, cùng với tay chân và cả thân hình đều tập trung vào mục đích diễn đạt ý tưởng sao cho hiệu quả nhất, thuyết phục người nghe hùng hồn nhất. Ở con người Đăng luôn phả ra một cái “thần” rất dũng mãnh có thể trùm lên cả người đối diện và chinh phục họ. Chỉ kẻ nào khao khát sống lắm mới toát lên một sức sống dữ dội như vậy. Nhiều buổi tối, dù đi dạy về mệt mỏi, tôi ngồi nghe Đăng kể chuyện, nhìn Đăng nói, rồi cười, rồi nói theo, rồi tranh luận, rồi sau đó giật mình thấy mình bị một thằng oắt con dắt mũi. Tôi không phải loại người cởi mở, và tự cho rằng ít người có thể chi phối được tính cách tôi. Lẽ nào, trong số ít người đó có chàng trai cung kính gọi tôi là cô, xưng là em này? Nhiều lần Đăng chào tôi ra về rồi, tôi vẫn đứng trong khung cửa nhìn theo một vóc dáng thanh niên vững chãi bước chắc chắn mà thanh thản trên đường Sài Gòn đêm, đầu ngẩng lên, gió thổi ***g cổ áo và đưa tiếng huýt sáo vui tươi bay ngược lại. Đăng đã làm cho tôi tin rằng cuộc đời này là của anh ta, hoặc nhất định anh ta sẽ có cả cuộc đời này. Tôi đã sống một cuộc đời khác hẳn. Nói một cách nào đó, tôi sống trong một thế giới hoàn toàn khác cái thế giới mà Đăng đang háo hức lao vào để khẳng định chính mình. Hai thế giới ấy xài chung hệ thống điện nước, người ở thế giới này quan sát được tất cả hành vi chuyển dịch ở thế giới kia như nhìn qua một tấm kính trong suốt, nhưng không bao giờ hòa nhập được với nhau. Phải, có một tấm kính trong suốt nhưng bất khả giao lưu giữa những thế giới con người. Từ trong thế giới của tôi, tôi quan sát Đăng bên kia tấm kinh và hiểu rằng không bao giờ tôi bước được vào chốn tưng bừng rực rỡ ấy. Có chăng một chút rạo rực dậy lên khi tôi nghĩ: con người ấy dám lao theo niềm tin của mình, giành lấy cái mình yêu quý bất chấp mọi thành trì thách thức. Và tim tôi nhói đau với ý nghĩ rằng hạnh phúc thay cô gái trẻ nào được Đăng yêu. Khi Đăng yêu, tình yêu toát ra từ hơi thở và mồ hôi ở chân lông kẽ tóc. Không đợi Đăng nói, không cần Đăng kể, tôi cũng biết Đăng đang yêu. Không phải yêu tôi, tất nhiên. Hẳn là Đăng đang yêu một người nào tuyệt vời lắm. Bằng một tình yêu tuyệt vời lắm. Con người đó, với mối tình đó cuốn Đăng mất tiêu cả tháng trời. Khóa mới ở trung tâm sắp mở, tôi nhắn Đăng mấy lần mà không thấy anh ta tới. Thật là chuyện lạ. Cuối cùng Đăng đến. Tôi nhìn chàng trai trước mắt mà rùng mình nổi gai ốc. Trong cái con người này, trên gương mặt này có một cái gì đó hoang dại, một cái gì tàn khốc, một cái gì cực kỳ điên rồ. Đăng nói, thoạt đầu như kẻ chiêm bao nói lảm nhảm, rồi như gã say tuôn trút ra những ẩn ức đáy lòng, sau cùng là loạn ngôn của người bệnh tâm thần. Tôi muốn tóm tắt một câu chuyện tình mà xét ra ngoài hai người trong cuộc không có gì mới mẻ thú vị với người thứ ba, nhất là người thứ ba đó là tôi. Một buổi tối Đăng gặp trên đường một cô gái mặc tấm áo nhung màu xanh đại dương. Cô có đôi mắt cũng thăm thẳm như đại dương. Hai người yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Họ không mất thì giờ cho những trò ỡm ờ đẩy đưa tán tỉnh. Hai người cuốn hút như hai nam châm khác cực. Ngay đêm đầu tiên đó dưới bầu trời sao trên nêm cỏ công viên, âm dương đã hòa hợp. Đêm sau đêm sau, đêm sau nữa… hoan lạc triền miên. Ngày của Đăng chỉ là sự chờ đợi mặt trời đi ngủ sớm. Anh ta đi lang thang trên phố như kẻ mộng du hay ngồi thừ ở một ghế đá công viên như tên du thủ, chờ hoàng hôn tắt và cô gái đến với anh. Cô ta nói rằng cô không còn nhà cửa, phải ở đậu trong chùa. Cô cũng không còn cha mẹ anh em, không có tiền của, sự nghiệp lênh đênh. Sá gì điều đó bởi Đăng cũng không tiền, nghề nghiệp, cha mẹ nơi quê nhà xa tắp, bản thân cũng phiêu linh phiêu lãng vì đã bị đuổi ra khỏi ký túc xá sinh viên sau khi tốt nghiệp. Họ gặp nhau ở góc đường, hẻm tối, hay công viên vắng vẻ. Sá gì điều đó khi người ta yêu! Một đêm họ nằm dài bên nhau trên lề đường lát đá, Đăng ôm tấm thân mềm mại nhẹ tênh của cô gái mà thủ thỉ. Những hoài bão của tuổi trẻ. Những nỗ lực không ngừng để dành lấy một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Và cũng như mọi chàng trai khác, Đăng cũng hứa hẹn với người yêu. Mai mốt, có thể đầu tháng tới, người đỡ đầu của Đăng tức là tôi, sẽ giới thiệu cho Đăng vài lớp ở trung tâm như lời hứa. Đăng sẽ có tiền, sẽ mướn phòng ở đàng hoàng để đưa nàng về. Nghe đến tên tôi, người yêu của Đăng hỏi lại. Cô ta hỏi vài chi tiết về lý lịch tôi như kiểm tra rồi im lặng nhìn Đăng đăm đăm. Lần đầu tiên Đăng nhận thấy từ đáy mắt thăm thẳm như đại dương ấy gợn lên một nỗi buồn như sóng, vô tận. Đêm sau, đêm sau, đêm sau nữa, cô gái không xuất hiện. Đăng hoảng hốt, sợ hãi, điên cuồng vì chờ đợi. Đến lúc chàng trai sắp đốt cả thành phố này để tìm kiếm người yêu thì cô gái đến. Vẫn tấm áo nhung xanh màu đại dương, đôi mắt thăm thẳm sóng trùng trùng vô tận làm Đăng có cảm giác gương mặt cô xa xăm không thực. Chờ cho Đăng vồ vập rồi trách móc hờn dỗi rồi vỗ về, cô bình thản nói lời vĩnh biệt. Qua ba ngày cô quyết định dứt khoát là không gặp lại Đăng nữa. Không bao giờ nữa. Tại sao? Tại sao ư? Nếu Đăng muốn biết thì hãy kể lại câu chuyện này cho người đỡ đầu, tức là tôi, và nói với tôi tên cô gái là Du Thảo.Tôi thoạt đầu nhíu mày lại, nghiêng tai như muốn nghe lại cái tên mình lơ đãng không nghe rõ. Rồi tôi chăm chú nhìn Đăng để chắc rằng anh ta không xạo mà cũng không điên. Nói cho cùng chuyện mà Đăng kể hôm nay cũng không vượt ra ngoài sự tưởng tượng hay đức tin của tôi lâu nay. Nhưng tôi càng nhìn Đăng càng nhận ra là chuyện thật, càng nghe lòng buồn da diết. Tội nghiệp bạn tôi. Tội nghiệp mày quá, Du Thảo à.Du Thảo là bạn học chung lớp ở trường trung học. Hồi đó nó đi học có xe hơi đưa đón. Chiến tranh qua đi, gia đình tan tác, nó lưu lạc ở tuổi mười sáu, vô Thanh niên xung phong đi phá rừng đào kênh. Ít lâu sau liên lạc được với bà con ở nước ngoài, nó về Sài Gòn sống bằng đô la viện trợ. Tôi nhớ dạo lạm phát phi mã, không, phi thuyền chứ, sáng vàng mười tám ngàn một chỉ, chiều hai mươi, hôm sau hai mươi lăm. Tôi lãnh lương ra cầm xấp tiền trong tay, như cầm cục nước đá, tiêu hết ngay biết lấy gì sống ngày mai. Không tiêu ngay thì cứ nhìn giá trị nó tan ra teo đi nhanh ***ng. Thảo cầm tờ năm mươi đô la tựa ban công nhìn xuống phố nói với tôi rằng để đến mai không chừng bán ra được gấp đôi tiền, mua được gấp đôi gạo đường sữa… Cái vui của mình thành ra tỷ lệ thuận với nỗi lo âu của đại đa số đồng bào. Tôi bảo không việc gì nó phải bận tâm vì long thương nước lo dân là độc quyền của người khác rồi. Nó nói nó không sao xua đi được cảm giác người ngoài cuộc, kẻ ở một thế giới khác. “Tao không phải là người của cõi mà mọi người đang sống”. Tôi còn nhớ nó hay nói như vậy và tôi cho rằng nó nghĩ vậy tại nó bơ vơ một mình. Thỉnh thoảng nó đem tiền quăng qua cửa sổ, rủ bạn bè đi Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu… chơi. Tụi này hay ngồi trên bãi biển ban đêm, khi thủy triều kéo mép nước lùi thật xa, bãi cát lộ ra rộng dài im mát. Tụi này hay nói truyện tào lao, nhắc kỷ niệm học trò, bàn luận văn chương vớ vẩn. Một đứa nói sao hồi nhỏ đi học lượm được trái me rụng dọc đường vô lớp ngồi ăn ngon gì mà ngon. Bây giờ cũng cây me đó rụng trái me đó trên con đường đó mà ăn vô chỉ thấy chua lè. Thảo nói hình như cái gì ngon lành hay ho nhất là cái mình đã hưởng qua thời niên thiếu. Nó cho rằng sống chừng một phần tư thế kỷ người ta đủ biết hết cuộc đời này rồi. Nhưng nó, miếng ngon từng hưởng, đói khát từng qua, vinh cũng có mà nhục không phải không. Bắt đầu từ tuổi hai mươi nhăm trở đi, người ta sống là để nhìn thấy những ảo ảnh vỡ dần. Tôi nhớ một truyện ngắn của Lỗ Tấn, nhân vật trong truyện đi coi hát, nghe nói tuồng tích hay lắm, kép nọ lừng danh, nên cố đứng lóng ngóng trong đám đông xem hết hồi này tới hồi kia, tuồng tích gì lê thê chẳng biết đầu đuôi ra sao cũng không biết bao giờ kết thúc, kép gì đó cũng không biết là ai, chờ hoài cũng không biết bao giờ xuất hiện. Ở lại xem thì chán, xem mãi cũng chỉ thấy ngần ấy diễn viên, ngần ấy động tác. Bỏ về nhà thì nhỡ lúc mình về rồi xuất hiện cái gì hay lắm, uổng không được xem. Vì vậy người ta cứ sống tới bẩy chục, tám chục tuổi nếu trời để cho sống. Du Thảo đứng dậy nói thôi tao chết đây, như tôi nói thôi tao đi ngủ đây, khi duỗi dài người trên cát để chấm dứt chuyện tào lao, nhắm mắt ngủ. Sáng dậy mới hay đêm qua Du Thảo đã bơi ra biển, hôm sau nữa mới tìm được xác nó bị sóng đánh tấp vô ghềnh đá. Tự tay tôi đã mặc cho nó chiếc áo màu đại dương, đã vuốt mắt và trang điểm lại cho nó lần cuối, rồi đưa nó vào lò thiêu.Đăng hỏi tôi có biết Du Thảo không, có biết tại sao cô ta lại dứt bỏ mối tình đột ngột và tàn nhẫn như vậy? Đăng biết Thảo yêu mình như chính mình yêu Thảo. Một tình yêu tuyệt đối. Đăng sẵn sàng đánh đổi tất cả, tất cả, cho tình yêu. Tôi tin, căn cứ vào những việc đã qua. Anh ta đã đánh đổi sức lực, sĩ diện, tư cách, tham vọng cho mối tình ở lề đường góc phố ấy. Anh ta yêu mà không đặt một câu hỏi rằng người mình yêu có thực hay không. Tôi nhìn cái con người trước mặt đã khác hoàn toàn chàng trai trẻ đầy sức sống, đầy tự tin, đầy hy vọng, đầy tương lai của một tháng trước. Tôi nói thầm. Đâu phải mày, hả Du Thảo. Còn nhớ đêm ấy trên bãi biển, tao hỏi mày chắc đã sống đủ chưa, mày chưa yêu mà. Mày cười ngất, làm gì có cái gọi là tình yêu. Giờ biết gọi là cái gì đây? Tôi bảo Đăng đi theo tôi, phải nhận diện trước đã.Tôi dắt Đăng vào chùa, dẫn ra hậu liêu, nơi để bài vị, ảnh thờ và tỉnh cốt. Tôi đi trước, không ngoái lại nhìn Đăng nối bước phía sau, nên không thể tả vẻ mặt hay dáng vẻ anh ta, càng không thể nói được điều gì đang diễn ra trong lòng anh ta. Tôi chỉ bức chân dung của Du Thảo hỏi có phải người này không. Đăng trợn trắng mắt nhìn, lưng tựa vào cột chùa, mà đầu gối khuỵu xuống. Và dù anh ta cố gắng khép hai đầu gối lại, khoảng vải quần dưới cũng vẫn loang ra vết sậm vì ướt. Tôi thắp nén nhang cho bạn mình. Hương trầm thoảng đưa, khói nhang phảng phất trong đôi mắt thăm thẳm trùng trùng sóng đại dương. Tôi quay lại không thấy Đăng đâu nữa. Tôi cũng chẳng quan tâm đến anh ta làm chi. Chỉ ngậm ngùi thương bạn mình. Chắc thế giới bên kia cũng chẳng có gì vui lắm, nên mày qua lại cõi này ghẹo thằng nhỏ đỡ buồn. Nhè thằng dở quá, mới thấy ma đã té đái trong quần.